Văn Cao họ Nguyễn (Nguyễn Văn Cao), ông sinh ngày 15/11/1923 tại phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc của ông lại ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Xuất thân trong một gia đình công chức, thuở thiếu thời, Văn Cao học tại trường Tiểu học Bonnal, sau lên học Trung học tại trường Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học nhạc. Cuối những năm 1930, Tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng lúc bấy giờ xuất hiện một nhóm các nhạc sĩ tiên phong như: Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý… Văn Cao tham gia vào nhóm “Đồng Vọng” của nhạc sĩ Hoàng Quý và các nhạc sĩ: Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận…
TỪ BUỒN TÀN THU
Ở tuổi 16, cái tuổi chưa hẳn đã lớn, nhưng cũng chẳng còn là trẻ thơ, mà đôi khi còn bị coi là “ăn chưa no, lo chưa tới”, song dường như suy nghĩ của Văn Cao chín hơn độ tuổi của mình. Trong ông luôn có những dằn vặt, hoài nghi, tự đặt câu hỏi rồi lại tự mình đi tìm lời giải cho những nghĩ suy của mình về thời cuộc.
Buồn tàn thu là sáng tác đầu tay với những cảm xúc đa mang về thân phận con người, về nhân tình thế thái, khiến người nghe giật mình bởi với tâm hồn của một chàng trai mới bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, làm sao có thể cảm thấu được tình yêu, sự tuyệt vọng, cô đơn, để viết ra được những ca từ thấm đẫm hồn thơ, hồn nhạc, thì quả thực là “độc nhất vô nhị”...
Người làm cho Buồn tàn thu trở nên nổi tiếng là danh ca Thái Thanh - Giọng hát liêu trai, bàng bạc, ma mị của bà như cuốn người nghe vào câu chuyện tình yêu đầy trắc trở qua những ca từ giàu hình tượng: “… Người ơi! còn biết em nhớ mang/Tình xưa còn đó xa xôi lòng/Nhờ bóng chim uyên nhờ gió đưa duyên,chim với gió bay về chàng quên hết lời thề... Thôi tình em đấy như mùa thu chết rơi theo lá vàng”.
Không ai có thể tưởng tượng nổi, những ca từ, câu hát chất chứa bao nỗi niềm của sự yêu đương, luyến ái, dằn vặt, đau khổ, nhớ nhung ấy lại được cất lên bởi một chàng thanh niên “mặt búng ra sữa”. Nói theo chữ của Nhạc sĩ Thụy Kha: “Văn Cao là trời cho”, nên ông đã cảm thấu được trọn vẹn những thanh âm của mùa thu đang dần tàn lụi; cảm nhận được những khắc khoải đợi chờ như thắt từng khúc ruột. Cảm xúc yêu đương, luyến ái “...kề má say sưa”. Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha từng nhận xét: "Buồn tàn thu của Văn Cao ra đời mang hơi hướng của âm nhạc ca trù, phong vị Đường thi ở lời ca. Tác phẩm mang một tâm trạng tiếc nuối về những sự ra đi không trở lại: “Đêm mùa thu chết - Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng…".
Theo nhạc sĩ Văn Cao lúc sinh thời, trước khi Buồn tàn thu được “đóng đinh” với giọng hát Thái Thanh, thì nhạc sĩ Phạm Duy là người đầu tiên hát và cũng đã góp phần lan tỏa Buồn tàn thu và nhiều tác phẩm khác của ông đến với công chúng trong và ngoài nước. Sau Thái Thanh, có nhiều người hát và “định hình” tiếng hát của mình với Buồn tàn thu, trong đó có ca sĩ Ánh Tuyết. Nhạc sĩ Văn Cao đã dành nhiều lời khen tặng cho Ánh Tuyết, bởi cô đã thấu cảm được ca từ, giai điệu của tác phẩm và đã cất lên tiếng hát nức nở bằng những rung cảm, thẳm sâu bằng trái tim người nghệ sĩ.
Bằng lối hát tự sự, không nhạc đệm, theo một phong vị riêng, nghe Ánh Tuyết hát, nhạc sĩ Văn Cao đã từng thốt lên rằng: “Ánh Tuyết là người đã chạm được vào những rung cảm của giai điệu bài hát và trình diễn nó theo cách mà tôi hài lòng nhất”. Nhiều khán giả nhận xét rằng: “Sau năm 1975, Ánh Tuyết là ca sĩ hát nhạc nhạc sĩ Văn Cao hay nhất”. Bản thân tôi đã nhiều lần chứng kiến ca sĩ Ánh Tuyết bỗng nhòa lệ khi hát Buồn tàn thu, và cũng nhiều lần, khán phòng Nhà hát nhiều tiếng sụt sùi chung mạch cảm với những giai điệu ca từ của nhạc sĩ qua tiếng hát ca sĩ Ánh Tuyết.
Một ca khúc ra đời và được lưu truyền suốt hơn 70 năm qua không chỉ cho thấy tính sự định hình trong sáng tạo rất riêng của nhạc sĩ Văn Cao từ buổi đầu của tân nhạc Việt Nam mà còn cho thấy ông là người thông tuệ, hiểu biết sâu rộng nên ca từ trong sáng tác của ông thật khó ai có thể sánh bằng bởi vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại có nét cổ xưa, phong lưu qua cách dùng từ: “Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên/ Chim với gió bay về/ chàng quên hết lời thề…”. Một nỗi sầu buồn miên man nhưng không quá bi lụy mà lại cho ta cảm giác rất dễ chịu. “Ai lướt đi ngoài sương gió/ Không dừng chân đến em bẽ bàng/ Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngày bước chân chàng/ Từ từ xa đường vắng/Đêm mùa thu chết nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng...”
Không ai có thể hiểu được vì sao một chàng thiếu niên 16 tuổi đã có thể cảm nhận thế nào là “kề má say sưa” và “tình xưa còn đó xa xôi lòng”, hay có thể nghe được tiếng thu đang tàn, xa dần và vời vợi ngoài sương gió, như nỗi lòng của một người con gái bẽ bàng vấn vương: “Em ngồi đan áo/ Lòng buồn vương vấn /Em thương nhớ chàng/ Người ơi còn biết em nhớ mang/ Tình xưa còn đó xa xôi long/ Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên/ Chim với gió bay về Chàng quên hết lời thề/ Áo đan hết rồi, cố quên dáng người/ Chàng ngày nao tìm đến còn nhớ đêm xưa kề má say sưa / Nhưng năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần/ Thôi tình em đấy như mùa thu chết rơi theo lá vàng…”.
Với những ca từ và giai điệu được viết ra ở tuổi 16, tôi có cảm giác khi viết Văn Cao như lạc vào một cõi khác, cái cõi riêng mang mà tạo hóa ban tặng cho ông, và có lẽ ông là người duy nhất nhận được tín hiệu “thông linh” từ vũ trụ để chép lại bằng âm nhạc. Bởi, dù đã 7 thập kỷ qua đi, nhưng các thế hệ hậu sinh vẫn có thể thẩm được cái nét trực tinh, cổ phong qua từng lời thơ, câu nhạc “... nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng”.
Đó là câu chuyện về tác phẩm Buồn tàn thu được Văn Cao sáng tác năm 1939. Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, ông đã viết “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” - đây là bài thơ đầu tay và cũng được giới văn đàn đánh giá cao.Năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội, thuê căn gác nhỏ ở số 171 phố Mongrant - nay là số 45, phố Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội. Đồng thời, ông theo học dự thính tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao vẫn làm thơ, viết truyện cho Tiểu thuyết thứ 7. Năm 1943 - 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại Nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”. Đặc biệt tác phẩm “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” được đánh giá cao và gây chấn động dư luận.
Sau Buồn tàn thu, Văn Cao viết: Thiên Thai (1941), Bến xuân, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Đàn chim Việt, Suối mơ (1942), Trương Chi (1943)...
Mỗi tác phẩm là một câu chuyện thú vị, như những bức tranh âm thanh nhiều màu sắc. Ở đó có những khoảng tối - sáng; trầm - bổng; khi da diết, lúc dồn dập… khiến người nghe bị cuốn vào mạch kể câu chuyện khó mà dứt ra nửa chừng, bởi giai điệu và ca từ như tuôn chảy, cứ quyến quyện vào nhau như con tằm rút ruột nhả tơ. Nghe - cảm và thấu từng ca từ ẩn dụ, đầy tính triết lý nhân sinh và cũng thật giàu hình ảnh mà sinh thời Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có lần đã phải thốt lên: “Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng”.
Từ Buồn tàn thu, Văn Cao viết rất đều tay hơn. Cả thơ và nhạc của ông dường như đều chú tâm vào mùa thu mà như sinh thời ông từng nói: “Có lẽ cuộc đời sinh ra tôi ở mùa thu. Và không hiểu tại sao thơ mà tôi chịu ảnh hưởng thì đều là những bài thơ vào mùa thu. Và với bản thân tôi thì mùa thu nó có cái ấm, có cái se lạnh vào cuối mùa, cũng là những ngày có nhiều tưởng tượng nhất”.
Mặc dù những sáng tác của Văn Cao mang hơi hướng phong cách của âm nhạc Châu âu. Tuy nhiên, với tôi, cái hồn cốt của âm nhạc Việt đã ngấm sâu trong từng mạch máu, nên những tác phẩm Văn Cao viết trong thời kỳ đầu của tân nhạc Việt Nam vẫn ẩn chứa những nét tinh túy của âm nhạc Việt Nam.
Sau một loạt những bài hát lãng mạn, trữ tình, cùng thời gian và những biến động của đời sống xã hội, nhạc sĩ Văn Cao đã chuyển hướng sáng tác những bài hát có giai điệu hào hùng, là những hành khúc như lời kêu gọi, hiệu triệu các tầng lớp nhân dân cùng đồng tâm, đồng lòng một tình yêu tổ quốc.
MÙA THU CÁCH MẠNG
Có lẽ, trong một thời gian tham gia vào nhóm “Đồng Vọng”, nhạc sĩ Văn Cao ít nhiều đã ảnh hưởng trong tư tưởng sáng tạo. Sau một loạt những bản tình ca như: Buồn tàn thu, Suối mơ, Thiên thai, Đàn chim Việt... Văn Cao viết Thăng Long hành khúc ca, rồi Gò Đống Đa - đấy là 2 trong số những ca khúc yêu nước, thể hiện tinh thần quả cảm của tình yêu tổ quốc đầy khí phách, hùng tráng và dữ dội, rồi Khoảng năm 1944, Văn Cao đã viết: Chiến sĩ Việt Nam.
Cuối năm 1944, Văn Cao gặp ông Vũ Quý, một Việt Minh mà Văn Cao đã quen biết trước khi còn ở Hải Phòng. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc ch Cách mạng. Đây chính là bước ngoặt cuộc đời của ông bởi sự xuất hiện của Tiến quân ca - ông đã khẳng định quyết tâm, ý chí một lòng đi theo cách mạng từ những động viên khích lệ của một cán bộ Việt Minh là ông Vũ Quý. Một hình ảnh lá “Cờ đỏ sao Vàng” - biểu trưng cho dân tộc Việt Nam hiện diện trong hành khúc đầy hào sảng, hùng tráng, mang khí phách, cốt cách của người Việt Nam “thà hy sinh chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Tác phẩm là sự xuất thần của Văn Cao cả về nội dung, hình thức thể hiện, tư tưởng và nghệ thuật. Ngay khi xuất hiện, Tiến quân ca đã được các tầng lớp nhân dân Việt Nam đón nhận, bởi dự cảm của ông cũng là điều mong mỏi của cả dân tộc. Tiến quân ca như mốc son của âm nhạc Việt Nam trong dòng chảy lịch sử của dân tộc. Ngày 1/8/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lấy Tiến quân ca làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Và lần đầu tiên Tiến quân ca được in trên trang Văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11/1944 bằng bản in đá do chính Văn Cao viết. Ngày 17/8/1945, trong cuộc Mít tinh trước Quảng trường Cách mạng tháng Tám, bài hát vang lên trước đông đảo quần chúng nhân dân Hà Nội. Ngày 19/8/1945, trong cuộc Mít tinh lớn, Dàn đồng ca của Đội Thiếu niên Tiền phong cũng đã hát vang bài hát này. Ngày 2/9/1945, Tiến quân ca chính thức được cử hành trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, cùng Ban nhạc Giải phóng quân do nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên chỉ huy. Và cũng từ đó cho tới nay, gần 80 năm qua đi, mỗi người dân đất Việt đều tự hào, xúc động mỗi khi Quốc ca Việt Nam được vang lên, nhất là trên các đấu trường quốc tế. Quốc ca được hát trang trọng trong Lễ chào cờ, nhưng Tiến quân ca - Quốc ca còn được nhiều nghệ sĩ biểu diễn với những hình thức nghệ thuật khác nhau, mang lại những cảm xúc đặc biệt và thật tuyệt vời khi giai điệu vang lên, trong lòng mỗi chúng ta ai cũng ngân rung câu hát đầy tự hào dân tộc.
Cũng trong năm 1945, Văn Cao viết tiếp Hải quân Việt Nam, ở thể hành khúc. Tác phẩm mang tính phát hiện và cũng là dự cảm của người nhạc sĩ về lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Bởi, khi tác phẩm ra đời, lúc ấy Quân chủng Hải quân còn chưa được thành lập. Và tác phẩm được viết ra có lẽ bởi trước đó vào năm 1943 Văn Cao đã tham gia trong phong trào Việt Minh. Cùng với Hải Quân Việt Nam ông còn có Không quân Việt Nam hành khúc (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945). Có thể thấy, với chùm tác phẩm: Chiến sĩ Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam, cho thấy tầm nhìn xa, trông rộng của Văn Cao đối với chiều dài lịch sử đất nước được ông tỏ bày thông qua chính sự nghiệp âm nhạc của mình. Những phát hiện, dự báo của ông góp phần làm tiền đề cho sự ra đời của các binh chủng, quân chủng sau này. Qua đó có thể thấy, cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Văn Cao vốn gắn liền đan cài và hòa vào dòng chảy của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Ở mỗi giai đoạn ông đã phải trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, song tình yêu tổ quốc vẫn sắt son chung thủy và được ông ghi lại trong Thơ - Nhạc - Họa.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và là họa sĩ trình bày cho báo Lao Động. Năm 1946, Văn Cao tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu làm Ủy viên Chấp hành. Ông hoạt động ở Liên khu III, phụ trách tổ điều tra của Công an Liên khu và viết bài cho Báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của Công an Liên khu 10 ở biên giới phía Bắc. Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp tục sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như: Làng tôi (1947), Trường ca Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948), Tiến về Hà Nội (1949)... và sau này là Mùa xuân đầu tiên (1976) và nhiều ca khúc khác, thậm chí nhiều bài được ông sáng tác sau này còn nằm trên giấy, chưa được công bố.
Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đã viết: "Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt Nam thế kỷ XX nhiều biến động, để lại cho thế hệ sau không ít câu hỏi không dễ trả lời... Những ngày tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông không lý giải được, những bức tranh của ông cũng không lý giải được. Chỉ còn lại thơ, xoa dịu và tỏ bày giùm Văn Cao".
Năm nay (2023), nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, Đài Tiếng nói Việt Nam đã tổ chức thu thanh một trong số những tác phẩm hiếm hoi ông viết về đồng bào vùng cao mang tên: Đường dây qua bản Mèo. Theo di cảo thì bài hát này được nhạc sĩ Văn Cao sáng tác vào năm 1968, khi đường dây phát thanh của VOV đến với những vùng cao xa xôi. Vì thế, lựa chọn tác phẩm này phối khí, dàn dựng và thu thanh cũng là mong muốn của Lãnh đạo Ban Âm nhạc VOV3 (Đài TNVN) đưa thông tin và âm nhạc đến gần hơn với công chúng.
Đường dây qua bản Mèo có bút pháp đơn giản, khai thác chất liệu của dân tộc miền núi vùng cao phía Bắc; Ca từ ngợi ca những người làm công tác xây dựng đường dây thông tin đến với những bản làng xa xôi. Khi có đường dây đó, tiếng loa truyền thanh của VOV mang giọng nói của Bác Hồ, của Đảng, của Chính phủ đến được với đồng bào. Theo nhạc sĩ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao thì “trong cả cuộc đời sáng tạo âm nhạc của mình, nhạc sĩ Văn Cao hầu như rất ít sáng tác theo đơn đặt hàng. Chỉ một vài đơn vị thân thiết và cũng phải có cảm xúc nhạc sĩ Văn Cao mới viết nên những ca khúc đặt hàng của nhạc sĩ Văn Cao chỉ đếm được trên đầu ngón tay”. Riêng bài hát Đường dây qua bản Mèo thì không chỉ là đơn đặt hàng mà chính nhạc sĩ Văn Cao đã có nhiều thời gian sống với đồng bào dân tộc, đặc biệt là dân tộc Mèo (Mông), bởi ông rất yêu thích văn hóa của dân tộc này và thường vẽ tranh, ký họa rất nhiều về người Mông. Trong những năm tháng kháng chiến, đời sống người Mông khó khăn, nên khi nghe tin sẽ có dự án kéo đường dây lên bản, nhạc sĩ Văn Cao rất mừng và ông đã nhận lời viết cho đơn vị thông tin bài hát Đường dây qua bản Mèo.
Có thể thấy, hành trình sáng tạo nghệ thuật của Văn Cao gắn liền với lịch sử dân tộc, đồng hành cùng dân tộc. Mỗi tác phẩm của ông ghi lại những dấu ấn quan trọng có giá trị về tư tưởng, phong cách và nghệ thuật riêng biệt, không trộn lẫn. Những tác phẩm ấy đã vượt thời gian, trao truyền và lan tỏa đến nhiều thế hệ nghệ sĩ và cả công chúng trong và ngoài nước, khắc tên mình một cách chói sáng trong nền văn hoá nghệ thuật Việt Nam. Năm 2016, gia đình nhạc sĩ Văn Cao đã thực hiện di nguyện của ông - Hiến tặng bản quyền Quốc ca cho Tổ quốc - Đó cũng là điều rất đặc biệt và thiêng liêng…
ĐÔI ĐIỀU VỀ VIỆC SÁNG TẠO VÀ LÀM MỚI ÂM NHẠC VĂN CAO
Việc làm mới các tác phẩm âm nhạc của thế hệ đi trước là một trong những vấn đề cần bàn luận nhiều. Điều này đặc biệt quan trọng đối với lĩnh vực âm nhạc nói riêng Văn học nghệ thuật nói chung. Bởi nước ta trải quá lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước với những đặc điểm lịch sử rất khác so với các quốc gia trên thế giới và cùng với đó là những tác phẩm âm nhạc mang giá trị lịch sử và văn hóa đặc biệt.
Mỗi nghệ sĩ đều có những sáng tạo của riêng mình để định danh trước công chúng. Ca sĩ, ngoài chất giọng trời phú thì rất cần sự sáng tạo mang bản ngã riêng trong mỗi dòng nhạc, mỗi tác phẩm và mỗi một chương trình nghệ thuật sẽ đều có những chủ đích sáng tạo để làm mới mình mỗi khi xuất hiện. Còn đối với nhạc sĩ cũng vậy, họ có thể sáng tác nhiều tác phẩm với những phong cách khác nhau, nhưng sẽ có những cách khai thác, sáng tạo mang bản ngã, phong cách và dấu ấn riêng để khẳng định tên tuổi của mình qua các tác phẩm - đó có thể là dấu ấn trong ngôn ngữ, bút pháp thi ca, dấu ấn trong trong việc khai thác chất liệu liệu âm nhạc hay dấu ấn trong trong sự phát triển của của đường tuyến giai điệu… Đối với nhạc sĩ Văn Cao, dường như ngay từ bài đầu tiên ông đã định hình sẵn cho mình một tư duy âm nhạc riêng biệt, không trộn lẫn cả về bút pháp thi ca, lẫn khúc thức âm nhạc thể hiện rõ đặc trưng thể loại ở mảng: Trữ tình lãng mạn; hành khúc cách mạng; Trường ca và những ca khúc về quê hương, đất nước.
Là người nghệ sĩ đã đạt tới đỉnh cao của cả ba lĩnh vực: Âm nhạc - Hội họa - Thi ca, nên phong cách âm nhạc của Văn Cao mang những đặc trưng riêng không trộn lẫn. Riêng trong lĩnh vực âm nhạc, ở cả 3 thể loại: Tình ca của ông thì lãng mạn vô đối; Hành khúc thì hùng tráng; Trường ca Sông lô thì như thước phim được ghi lại bởi âm thanh và ca từ của tác phẩm gợi cho người nghe về dấu ấn quan trọng trong dòng chảy lịch sử. Không những thế, những sáng tác mang phong cách nhạc nhẹ sau này của ông cũng là những bức tranh âm thanh giàu màu sắc và thật tươi mới. Đặc biệt, cấu trúc trong âm nhạc của Văn Cao rất khúc triết, mạch lạc, rõ ràng mang hơi hướng và phong cách của âm nhạc thính phòng, chỉ khi ta hiểu, ta cảm thấu thật rõ ràng tính chất, phong cách, ngôn ngữ trong âm nhạc và hóa thân vào nhân vật trong từng câu chuyên của ông bằng một trái tim rộng mở, một giọng hát trong sáng, không mưu cầu toan tính - bạn sẽ gặp Văn Cao ở đó - trong chính những giai điệu, ca từ mà bạn đang cất lên sẽ là những rung động thực, đầy thổi thức và mê hoặc lòng người.
Nói như Nhà văn Tạ Duy Anh, “Lịch sử Việt Nam đã dành cho nhạc sĩ, nghệ sĩ Văn Cao một vị trí vô cùng đặc biệt và độc đáo. Đặc biệt vì ông không chỉ là nhân vật có sức ảnh hưởng lâu dài về mặt văn hóa, mà còn là một nhân vật luôn có khả năng làm sống lại trong ký ức hàng triệu người một thời đại bi hùng, đầy biến động của đất nước. Độc đáo, vì cả khi không còn trên cõi đời, ông vẫn đồng hành cùng với chúng ta trong mọi niềm vui, nỗi buồn. Nhưng trên hết, ông là một người yêu nước, yêu con người, yêu quê hương, yêu tiếng Việt, yêu tâm hồn Việt và yêu cái đẹp”.
Chính bởi phong cách trong sáng tác đã được nhạc sĩ định hình một cách sắc sảo, tinh tế và rõ nét, nên việc làm mới âm nhạc của Văn Cao với riêng cá nhân tôi đòi hỏi phải rất tinh tế, nếu không sẽ phản tác dụng.
Bằng chứng là cuộc tranh luận về cách thể hiện các tác phẩm âm nhạc trong chương trình "Đàn chim Việt" - nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhạc sĩ Văn Cao diễn ra hôm 20/8/2023 tại Nhà hát Lớn Hà Nội là một ví dụ, mà theo như nhạc sĩ Phạm Việt Long thì: “Các ý kiến đối lập từ khán giả, ca sĩ và người tổ chức đã hình thành một cuộc thảo luận sôi nổi, với mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy sự phát triển và cải thiện trong lĩnh vực nghệ thuật, đồng thời tôn vinh giá trị của sự sáng tạo và khác biệt. Phá cách trong biểu diễn nghệ thuật yêu cầu một quá trình sáng tạo và đột phá trong cách thể hiện, đồng thời vẫn phải giữ vững sự tôn trọng và hiểu biết sâu sắc giá trị gốc, tinh thần và bản chất của tác phẩm. Điều này không chỉ đồng nghĩa với việc đưa nghệ thuật tiến xa hơn, mà còn thể hiện sự độc đáo và cá tính của nghệ sĩ. Phương pháp phá cách đích thực đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt, song đồng thời cũng cần có nền tảng vững chắc về văn hóa, để hiểu rõ nguồn gốc và ý nghĩa của tác phẩm. Bằng cách hòa trộn tinh thần đương đại và giá trị truyền thống, phá cách không chỉ mang đến sự mới mẻ cho tác phẩm, mà còn làm phong phú thêm cảm xúc và tầm nhìn cho công chúng. Như vậy, tính chất hiện đại và sự tôn trọng đối với quá khứ sẽ tạo ra những trải nghiệm nghệ thuật mới mẻ và ý nghĩa cho khán giả. Sự phá cách, sáng tạo không đúng cách trong biểu diễn nghệ thuật là đổi mới mà thiếu sự hiểu biết đúng đắn về giá trị gốc, tinh thần và ý nghĩa ban đầu của tác phẩm. Điều này có thể làm mất đi cấu trúc và sự thống nhất của tác phẩm. Sự phá cách sai cách có thể dẫn đến việc mất đi tính thẩm mỹ và các giá trị của tác phẩm, thậm chí mất mát thông điệp ban đầu. Tình trạng này thường xảy ra khi sự sáng tạo ép buộc tác phẩm vào một ngữ cảnh hoàn toàn khác mà không thể hiện đúng tinh thần tác phẩm gốc”.
Qua những phân tích của tiến sĩ, nhạc sĩ Phạm Việt Long, chúng ta thấy rõ một điều rằng, không phải tác phẩm nào cũng có thể làm mới, nhất là đối với những tác phẩm đã trở nên kinh điển, định hình phong cách, tồn tại lâu dài như một phần của di sản văn hóa, gắn liền với lịch sử dân tộc thì rất cần những người góp phần lan tỏa tác phẩm đủ độ chín, độ đằm với một bề dày về văn hóa, lịch sử và nghiệp vụ chuyên mộ đủ mạnh để làm chủ và hóa giải câu chuyện theo cách của mình mà không làm mất đi hồn cốt vốn đã đóng đinh trong lòng người yêu nhạc nhiều thế hệ.
Quả thực, cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao đã trải qua biết bao thăng trầm với quá nhiều những trúc trắc, trăn trở của cuộc sống. Những sáng tác ở cả ba lĩnh vực: Âm nhạc - Hội họa - Thi ca đều đã được kiểm chứng và sàng lọc bởi thời gian, bởi thính giác của mọi tầng lớp trong xã hội và đến giờ, những tác phẩm ấy vẫn trường tồn cùng năm tháng thì chẳng thể đem ra so sánh, bởi đó là những giá trị nghệ thuật đích thực - nghệ thuật vị nhân sinh. Với những gì mà ông dâng hiến, để lại cho đời khẳng định âm nhạc của Văn Cao toát lên sự tinh khiết và tinh tế, sâu sắc và nhân văn trong cả ngôn từ, âm nhạc và màu sắc. Trong tác phẩm của ông, mỗi câu nhạc, tiết nhạc đã chạm đến cảm xúc của người nghe và nếu chú tâm, bạn có thể cảm nhận được ở những thanh âm, giai điệu ấy có độ sáng, độ sâu từ thăm thẳm trái tim mình; trong tâm hồn, trong ý nghĩ của mình. Chúng ta có thể hát bất cứ bài hát nào của Văn Cao, nhưng không dễ để biểu đạt được cảm xúc trong những sáng tác ấy.
Cụ thể, trong đêm nhạc “Đàn chim Việt” tôi đã rất trông đợi khi được đắm chìm vào không gian âm nhạc và những hình ảnh tuyệt đẹp mà theo kịch bản của Đạo diễn Phạm Hoàng Nam thì đây là là một trong những tiết mục “đinh” là sự kết hợp giữa “Bến xuân - Đàn chim Việt” trong màn kết và chắc chắn sẽ để lại nhiều ấn tượng cho công chúng. Song, kỳ vọng bao nhiêu, tôi thất vọng bấy nhiêu. Sự thất vọng của tôi không phải bởi thiết kế mỹ thuật hay hiệu ứng ánh sáng, hoặc sự kết hợp của cả hai sân khấu trong và ngoài nhà hát như Đạo diễn Phạm Hoàng Nam chia sẻ với báo giới, mà chính là âm nhạc. Mặc dù bản phối cho Dàn nhạc giao hưởng khá cầu kỳ và học thuật, song tôi lại không cảm nhận được sự sang trọng và tinh tế vốn có của tác phẩm, nhất là khi ca sĩ cất giọng hát thì quả thực tim tôi như bị bóp nghẹt. Ngay từ câu hát đầu tiên Mỹ Linh cất lên, rồi đến Lan Anh, Hà Trần và Thanh Lam, tôi cảm giác như ai đó cứa vào tim, đau nhói. Tôi như cảm thấy mình bị “phản bội”... Nghệ sĩ có tên tuổi mà hát phô (sai cao độ) đã khiến tôi bị tụt cảm xúc; Thêm vào đó, họ đã làm mới bằng cách phối bè một cách vô tội vạ, làm biến dạng giai điệu chính và chỉ nghe thấy phần bè treo lơ lửng. Rồi đến khi Nam Khánh, Yvol, Tùng Dương xuất hiện để hát Đàn chim Việt thì tôi thực sự không chịu nổi bởi 3 giọng hát ấy chẳng thể nào hòa hợp được bởi Yvol thì giọng hát khỏe khoắn, hoang dại đậm chất Tây Nguyên, trong khi Nam Khánh lại là giọng Tenor 1 còn Tùng Dương lại là Tenor 2. Cả 3 giọng ca thiếu sự hòa hợp cần thiết trong giọng điệu, kèm với đó là lỗi tập bài không kỹ nên hát không đồng đều, người vào trước người vào sau khiến tai tôi như tiếp nhận một mớ âm thanh hỗn độn - Cảm xúc khán giả bị coi thường là có thật. Sau vài chục giây chấn tĩnh, tôi đã nhận ra, có lẽ nguyên nhân dẫn đến phần biểu diễn “Bến xuân - Đàn chim Việt” tệ hại đến như vậy, đầu tiên chính là sai lầm của việc lựa chọn ca sĩ thể hiện cũng như hình thức thể hiện. Điều tệ hại nữ chính là là do nhạc sĩ phối khí đã không cảm thấu được hết dòng chảy âm nhạc của tác giả, lạm dụng trong việc khai thác triệt để âm sắc của các nhạc cụ trong dàn nhạc giao hưởng làm cho các bè quá dày và ồn ào, không thể hiện được độ thẳm sâu, đĩnh đạc và có một chút gì đó vấn vương, nhưng vẫn toát lên sự trong sáng, sang trọng của tác phẩm. Đặc biệt, với ca từ trong các sáng tác của Văn cao ở mảng tình ca thì dường như có nhiều câu hát dài và người hát phải trường hơi, hoặc lấy hơi một cách rất tinh tế để tránh ngắt hơi, ngắt ca từ không chuẩn sẽ dẫn đến sai lệch ngữ nghĩa câu hát, khiến người nghe sẽ rất khó chịu. Chưa kể, nhạc trưởng lại là người nước ngoài nên việc nắm bắt và hiểu rõ ngôn từ của từng câu hát câu nhạc để có thể kiệu dàn nhạc hoặc bỏ nhỏ những câu hát cần độ lắng, cần sự nhấn nhá là khó có thực hiện. Với tôi, xem tiết mục đó chẳng khác nào ăn cơm nhai phải sạn.
Sau đó vài ngày, tôi may mắn được dự đêm nhạc “Điều còn mãi” do báo VietNamnet tổ chức. Nghe tiết mục “Đàn chim Việt” với phần trình bày của ca sĩ Phạm Thu Hà, cùng Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam - tôi thấy mình may mắn khi đã sớm lấy lại được cảm xúc, niềm tin. Mặc dù, biết phần trình diễn của Hà bị hát nhầm 2 từ (cố đô) thành (phố xưa) mà theo như ca sĩ Phạm Thu Hà là do hồi hộp, xúc động, và phần vì đang tập một bài hát khác và bị nhầm lời, song tôi đánh giá cao sự sáng tạo của cả ekip.
“Đàn chim Việt” thật sự đẹp bởi đã được nhạc sĩ Trần Mạnh Hùng nghiên cứu kỹ không chỉ là tác phẩm mà còn cả hoàn cảnh ra đời, thân thế sự nghiệp tác giả và những kiến thức nền tảng, bề dày văn hóa mà Hùng đã gom nhặt cho mình trong suốt hơn 20 năm hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp mang lai để có thể cảm thấu được hồn cốt của tác phẩm một cách rõ nét. Đặc biệt, trong bản phối, Trần Mạnh Hùng đã khai thác tinh tế âm sắc của bộ gỗ kết hợp sáo Flute khiến cho những thanh âm vang lên vừa có độ trầm sâu, gần gũi với giọng hát, vừa ngân rung bay bổng. Phải nói là một bản phối hoàn hảo, nhất là những đoạn tuti (cao trào). Ngay cả phần feeling của ca sĩ và Dàn nhạc cũng rất uyển chuyển, vừa thể hiện được kỹ thuật trong giọng hát mà lại không vượt quá xa đường tuyến phát triển của giai điệu tác phẩm góc. Với tôi - đây là một bản phối khí cho dàn nhạc giao hưởng hoàn hảo và đúng tinh thần Văn Cao trong tác phẩm “Đàn chim Việt”. Không hay sao được khi có một bản phối khí tốt, một dàn nhạc đỉnh cao (Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam) dưới đũa chỉ huy của nhạc trưởng trẻ tài ba Đồng Quang Vinh, âm nhạc như chất xúc tác nâng giọng hát Phạm Thu Hà vốn nhẹ nhàng, tinh tế và đầy học thuật càng trở nên bay bổng, lãng mạn và sâu sắc. Tôi và tôi nghĩ những ai có mặt trong khán phòng Nhà hát Lớn Hà Nội hôm ấy đều cảm nhận sâu sắc hồn cốt của tác phẩm - những giá trị nghệ thuật đích thực mà Văn Cao để lại.
Nhân đây cũng xin kể câu chuyện về ca sĩ Ánh Tuyết và cuộc hạnh ngộ trò 30 với âm nhạc Văn Cao và những ứng xử của chị thể hiện nhân cách và con người nghệ sĩ đối với một nhạc sĩ tài danh, mà nhờ những tác phẩm của ông đã đưa cuộc đời sự nghiệp của nghệ sĩ Ánh Tuyết đến gần hơn với công chúng.
Mới đây, ngày 23/10/2023 cùng sĩ Ánh Tuyết đến thăm và đã có một cuộc trò chuyện thú vị cùng bà Nghiêm Thúy Băng - phu nhân nhạc sĩ Văn Cao.
Ở tuổi 92, dù đi lại chậm chạp, khó khăn do tuổi cao, sức khỏe giảm sút, nhưng những câu chuyện bà kể thật tinh tường, minh triết. Niềm vui thể hiện rõ trên gương mặt, ánh mắt và nụ cười khi bà nhìn thấy và ôm chầm lấy ca sĩ Ánh Tuyết. Sau khi thắp nhang cho nhạc sĩ Văn Cao và hỏi thăm sức khỏe của phu nhân, câu chuyện về một thời quá vãng cứ thế hiện về. Ca sĩ Anh Tuyết như chợt bừng tỉnh, chị bật volume chiếc điện thoại và nâng sát lên tai bà Nghiêm Thúy Băng. Tiếng nhạc rồi tiếng hát cất lên, bà lặng đi, dường như bất động, cả chúng tôi cũng lặng theo bà chỉ để tiếng hát ngân rung khi thì thủ thỉ tâm tình, lúc thì nức nở như từng giọt rơi thấm vào tâm can mỗi người cho tới khi bản nhạc kết thúc.
Sau vài giây im lặng, bà thốt lên: “Nhớ! - Nhớ quá!. Ánh Tuyết hát bằng cả trái tim” (vừa nói bà vừa đưa tay để lên tim mình), rồi bà quay sang níu vai ca sĩ Ánh Tuyết để hôn lên hai má chị đầy yêu thương, cất giọng chậm rãi: “30 năm rồi, tiếng hát vẫn thế, từ trái tim đến trái tim, càng ngày nghe càng hay, càng thấm...”. Đến lúc này, ca sĩ Ánh Tuyết mới thảng thốt: “Ôi! Đúng rồi, vậy là tròn 30 năm cái ngày đầu tiên con tới ngôi nhà 108 Yết Kiêu này để gặp ông. Thời gian thật kinh khủng, và bà cũng thật là nhớ!. Không đợi Ánh Tuyết dứt lời, bà Thúy Băng quay qua chúng tôi nói: “Khi lời ca hiện ra, Ánh Tuyết hát bằng cả trái tim - tôi nhớ lắm, bởi người nhạc sĩ sáng tác bằng cả trái tim của mình mới làm được những câu thơ, từ câu thờ mới trở thành bản nhạc và từ bản nhạc đã tạo nên hình ảnh. Tất cả tạo nên một bức tranh âm thanh tổng thế về nhân tình thế thái, về đất nước về con người Việt Nam. Ánh Tuyết hát rất đẹp. Tôi cũng rất cảm động với những gì mà công chúng đã dành cho nhạc sĩ Văn Cao trong hàng chục năm qua”.
Với ca sĩ Ánh Tuyết thì: “Tâm trạng mỗi lần khi hát tác phẩm thì lại rất nhớ nhạc sĩ Văn Cao. Đã tròn 30 năm từ cuối tháng 7 năm 1993 gặp nhạc sĩ và hát bài Buồn tàn thu trong đêm nhạc của ông tại Sài Gòn và cũng nhờ đêm nhạc đó, âm nhạc Văn Cao đã chắp thêm đôi cánh để Ánh Tuyết bay trên bầu trời âm nhạc, đến với khán giả và để được yêu thương nhiều hơn. Mặc dù nhiều lần tới ngồi nhà 108 Yết Kiêu này, nhưng trở lại Hà Nội vào đúng mùa thu nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhạc sĩ Văn Cao, một lần nữa hát Buồn tàn thu và được ngồi ở đây, chính ngôi nhà này, khiến Tuyết như thấy ông vẫn còn đây với chén rượu nhỏ trên tay, đối diện với Ánh Tuyết trong căn phòng này. Ánh Tuyết nhớ lần ấy đến là để hỏi ông về sự ra đời của tác phẩm Trương Chi và Tuyết để biết phải trình bày tác phẩm như thế nào cho đúng với tinh thần của Văn Cao nhất. Tuy nhiên, thời gian cứ chầm chậm trôi trong tĩnh lặng, ông chỉ ngồi nhìn ra khung cửa sổ, hướng lên bầu trời với một ánh mắt vòi vọi như nghĩ đến một điều gì đó xa xăm, rất khó nói ra, nhưng Ánh Tuyết lại cảm nhận được thẳm sâu trong tâm tưởng của ông một cảm xúc cũng rất khó diễn tả bằng lời. Sau 3 tiếng đồng hồ ông cất giọng nhẹ nhàng: “Trương Chi là tôi đấy!!!”. Cứ thế, Ánh Tuyết tự nghiền ngẫm từng câu, từng chữ trong cả nhạc và lời để thẩm thấu, để cảm nhận và để hát lên tất cả nỗi lòng của người nhạc sĩ và sau này, nghe nhiều người kể lại, nhạc sĩ Văn Cao đã rất hài lòng với những gì Ánh Tuyết trình bày trong âm nhạc của ông. Nhạc sĩ Văn Cao là người kiệm lời, kiệm biểu cảm. Ông thường ngồi trầm ngâm và nhìn ra bầu trời. Ánh Tuyết luôn có cảm giác trong ông luôn đau đáu điều gì đó ở trong lòng rất khó để nói ra thành lời. Ánh mắt ông lúc nào cũng sáng lên một niềm mơ ước. Ông có nụ cười nhẹ, rất gọn và thấm đời, thấm người, thấm tâm can. Ngày đó Ánh Tuyết còn rụt rè, sợ sệt và không suy nghĩ nhiều như bây giờ, nhưng trải qua 30 năm thì càng để tâm vào dòng chảy âm nhạc của ông, Tuyết càng say và càng hát sẽ càng thấu từng ca từ, ý nhạc, bởi mỗi nốt nhạc, ca từ của ông đều có ấn ý ở trong đó”.
Viết đến đây, tôi cũng chợt nhớ câu nói của nhạc sĩ Thụy Kha trong câu chuyện với báo chí sau đêm nhạc “Đàn chim Việt” nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhạc sĩ Văn Cao, ông đã thốt lên rằng: “... để hát được Văn Cao là cả một câu chuyện Văn hóa”. Bởi, phá cách trong biểu diễn nghệ thuật là phạm trù văn hóa nên rất cần học tập và làm theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa nói chung, âm nhạc nói riêng và xin mượn lời dạy của Người “Chớ gieo vừng ra ngô!” - làm kim chỉ nam cho bản thân cũng như mong muốn của người viết gửi gắm tới những người luôn khát khao đi tìm cái đẹp nhân văn trong cuộc sống.
Nói như vậy để thấy rằng: Việc làm mới, sáng tạo cũng là một chủ đề thú vị và tôi mong rằng trong thời điểm chúng ta đang chấn hưng văn hóa thì cũng rất cần có những cuộc hội thảo về việc làm mới tác phẩm âm nhạc, qua đó, có thể thúc đẩy sự tham gia của những nhà sáng tạo, các nghệ sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc, và công chúng nhằm định hình hướng đi cho việc làm mới, xem xét giá trị và ý nghĩa của tác phẩm, từ đó có thể đưa ra những sáng kiến làm mới tác phẩm vừa để bảo tồn và phát triển trong thời hiện đại.
Việc làm mới các tác phẩm âm nhạc đã trở nên kinh điển, điều quan trọng nhất chính là sự tôn trọng và hiểu biết sâu sắc đối với giá trị gốc, tinh thần và bản chất của tác phẩm. Sự phá cách đúng cách có thể mang lại sự mới mẻ và ý nghĩa cho khán giả, nhưng không nên làm mất đi cấu trúc và giá trị ban đầu của tác phẩm.

Hà Nội 30/09/20253 Viết nhân Hội thảo 100 năm Văn Cao